19 thg 7, 2007

Rau củ quả - Hiểu để khỏe


 

Rau, củ, quả đang ngày càng chứng tỏ khả năng kỳ diệu của chúng với sức khoẻ con người. Tuy nhiên, để tận dụng triệt để những giá trị dinh dưỡng từ rau, củ, quả, bạn phải nắm được ưu, nhược điểm và cả cách thưởng thức, chế biến hợp lý...

Củ dền đỏ

Đây là loại củ mà các bà nội trợ rất ưa chuộng vì quan niệm đỏ ắt sẽ bổ máu. Tuy nhiên, màu đỏ của củ dền không giống như tinh thể của vitamin B12, màu đỏ này được xác định là chất betanin, thuộc nhóm betacyanin, một chất có nitơ dính vào sắc tố màu vàng betaxanthin.

Lưu ý: Không nên nấu củ dền đỏ cho trẻ nhỏ hoặc pha sữa vì có thể bị ngộ độc (Bệnh viện Nhi Đồng I đã tiếp nhận những ca bị ngộ độc do pha sữa bằng nước củ dền đỏ).

Măng

Trong các ngày lễ, Tết thì món măng không thể vắng mặt. Ấy vậy mà mọi người vẫn kêu là ăn măng bị nhức mình, đau khớp. Tuy nhiên, măng lại có tác dụng làm giảm mẩn ngứa, lợi tiểu, ra mồ hôi, lọc máu. Mặc dù là chưa có nghiên cứu nào cho thấy thành phần trong măng là bổ dưỡng nhưng măng lại có rất nhiều chất xơ tốt cho tiêu hóa.

Lưu ý: Luộc kỹ măng trước khi chế biến thì măng sẽ không đắng và không độc.

Rau má

Rau má là một loại rau có thể ăn sống, nấu chín, hay xay làm sinh tố rất mát cho cơ thể. Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng "ăn rau má nhiều sẽ bị mất máu".

Thực tế thì không phải như vậy, từ xưa ông bà ta đã coi rau má là một vị thuốc có tác dụng giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, chữa tiêu chảy, kiết lỵ, khí hư bạch đới, ói ra máu, đau mỏi lưng, đau bụng và lợi sữa cho các bà mẹ đang cho con bú.

Trong dân gian người ta chữa rôm sảy, mẩn ngứa bằng cách ăn rau má trộn dầu giấm hằng ngày hoặc giã nát rau má, vắt lấy nước, cho thêm đường vào uống.

Phụ nữ bị đau bụng kinh, mỏi lưng hái rau má lúc đang ra hoa, phơi khô tán nhỏ, uống 2 muỗng cà phê gạt mỗi ngày một lần vào buổi sáng.

Chữa đau bụng tiêu chảy hoặc kiết lỵ thì lấy chừng 30-40g rau má cả thân và lá nhai sống và nuốt.

Lưu ý: Lạm dụng dùng quá nhiều và liên tục sẽ không đạt hiệu quả chữa bệnh.

Khoai lang

Có tác dụng bồi bổ cơ thể, lợi mật, sáng mắt, chữa vàng da, ung nhọt, viêm tuyến vú, tốt cả cho phụ nữ kinh nguyệt không đều (dùng trước kỳ kinh). Để có tác dụng bổ dưỡng, nên ăn khoai vỏ đỏ ruột vàng. Để giải cảm và chữa táo bón phải dùng khoai vỏ trắng ruột trắng.

Trong khoai lang có chất đường, nếu ăn nhiều, nhất là khi đói sẽ gây tăng tiết dịch vị làm nóng ruột, ợ chua, sình hơi trướng bụng. Để tránh tình trạng này khoai phải được nấu, luộc, nướng thật chín. Nếu bị đầy bụng, có thể uống nước gừng để chữa.
Rau lang tính bình, vị ngọt, không độc, chữa kém ăn.

Lưu ý: - Không nên dùng khoai lang (củ và rau) lúc quá đói vì khi đó đường huyết đã thấp, lại bị hạ thêm gây mệt mỏi.

- Phải bỏ hết khoai hà (sùng), khoai đã có mầm và vỏ xanh chứa chất độc. Tương tự với khoai tây, để phòng ngộ độc, không dùng khoai đã mọc mầm. Khi gọt, cần khoét bỏ mắt và những chỗ đã chuyển sang màu xanh hoặc tím.

- Không ăn thường xuyên rau lang vì chứa nhiều canxi có thể gây sỏi thận.

- Khi luộc rau lang, nên lấy nước thứ hai vì nước thứ nhất thường chát và hăng.

Mướp đắng (khổ qua)

Được coi là một loại cây có giá trị dinh dưỡng cao và có tác dụng chữa bệnh đặc biệt là kết hợp để chữa bệnh tiểu đường.

Trong mướp đắng có chứa protit, lipit, đường, chất xơ, canxi, phốtpho, sắt, caroten, vitamin B1, B2, PP, C, các axit amin và các axit khác. Hạt có chứa protit, đường và một số axit. Theo đông y, mướp đắng có vị đắng, tính hàn, không độc, trừ nhiệt, mát tim, sáng mắt, bổ lao tổn, hạt có tác dụng tráng dương có thể chữa bệnh mộng tinh, liệt dương.

Ngoài ra, mướp đắng còn chữa say nắng, sốt (dùng 1 trái mướp đắng tươi bỏ ruột, đun cùng với lá để uống); đau mắt đỏ (dùng mướp đắng tươi 1 trái/ngày, bỏ ruột, giã nát lấy nước uống hoặc nấu để uống ngày 2-3 lần); mụn nhọt sưng tấy (chưa vỡ) (dùng 1 trái giã nát lấy nước uống và bã đắp chỗ sưng tấy).

Các trường hợp ho, nhiệt, (dùng 1-2 trái/ngày bỏ ruột đun nước uống 1-2 lần/ngày); trẻ rôm sảy nhiều (dùng 2-3 trái đun nước tắm 1 lần/ngày). Ngoài ra, có thể dùng mướp đắng phơi khô pha trà có tác dụng giải nhiệt, tâm thần bất định, hồi hộp, giảm sự bực bội, nóng nảy, kích thích tiêu hóa giúp ăn ngon hơn.

Lưu ý: Những người tỳ vị hư hàn, dễ bị tiêu chảy không nên ăn, nhất là ăn sống vì dễ bị đau bụng, đi ngoài.

Dưa chuột

Dưa chuột có hàm lượng canxi cao nên có tác dụng tốt đối với trẻ em chậm lớn. Tuy nhiên, người huyết áp cao không nên dùng. Dưa chuột cũng không thích hợp với những người thận hư yếu.

Cà rốt

Chứa nhiều glucoz, chất lecithin, caroten, dầu thực vật, muối, kali, caroten... Phụ nữ ăn cà rốt có tác dụng làm đẹp da, trẻ ăn vào lớn nhanh.

Lưu ý: Không nên lạm dụng loại củ này vì nếu ăn nhiều và liên tục, lượng caroten cao không được cơ thể chuyển hóa hết thành vitamin A sẽ bị tích lũy và ứ đọng ở gan gây chứng vàng da, ăn không tiêu, mệt mỏi.

Do vậy bình thường mỗi tuần chỉ nên cho trẻ ăn từ 2-3 lần, mỗi lần một nửa củ to hoặc một củ nhỏ 50g là vừa, với phụ nữ có thể ăn 100-150g ngày.

Trong trường hợp trẻ bị vàng da, ăn uống kém... nên ngừng cho trẻ ăn các loại thực phẩm chứa nhiều vitamin A như: cà rốt, đu đủ, gấc, rau ngót, rau dền cơm... chứng vàng da sẽ dần biến mất. Khoảng 2 tuần sau, có thể sử dụng lại các thực phẩm trên nhưng ở mức độ vừa phải.

Bưởi

Khi dùng chung với thuốc có thể gây hại cho sức khỏe. Không giống như các loại cam hay quýt, nước bưởi chứa furanocoumarin - một chất dường như có ảnh hưởng lên quá trình hấp thụ dược phẩm của con người, kể cả các loại thuốc làm giảm cholesterol, một số loại kháng histamin, một vài loại thuốc chống cương cứng và thuốc làm giảm huyết áp.

Xoài

Xoài có tác dụng cầm máu, lợi tiểu, được dùng để chữa ho ra máu, chảy máu đường ruột, đau răng, rong kinh, trừ giun sán. Thịt quả xoài có tác dụng lợi tiểu, chữa hoại huyết, nhưng nếu ăn nhiều sẽ nóng. Mủ xoài có chất độc gây nôn mửa, tiêu chảy, viêm da.

Lưu ý: Trái cây có giá trị cao về dinh dưỡng và chữa bệnh nhưng nếu lạm dụng sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe do sự tương tác giữa các loại thức ăn và trái cây với nhau ví dụ:

Cam, quýt không ăn cùng với sữa bò làm ảnh hưởng tới tiêu hóa và hấp thụ.

Sữa bò và nước hoa quả cùng uống sẽ gây khó tiêu hoặc tiêu chảy.

Sữa đậu nành dùng chung với trứng gà ảnh hưởng xấu tới tiêu hóa.

Hải sản ăn với hồng, nho sẽ khó tiêu, gây đau bụng, buồn nôn.

Nước quả

Đối với một số bệnh, uống nước quả tươi sẽ đặc biệt có hại. Ví dụ, nếu đang bị viêm loét dạ dày, tá tràng hay viêm tuyến tụy thì bạn tuyệt đối không uống các loại nước quả chua như chanh, cam, táo, nho, dâu đất.

Các loại quả này chứa rất nhiều chất hữu cơ làm tăng axit dạ dày, gây ra chứng ợ nóng và làm chứng viêm loét nặng thêm. Những người bị tiểu đường cũng nên hạn chế uống nước nho vì nó chứa rất nhiều đường glucô và năng lượng.

Uống quá nhiều nước nho cũng sẽ gây rắc rối nếu bạn đang bị hội chứng ruột mẫn cảm, dễ bị kích thích.

Nước cà chua chống chỉ định trong các trường hợp bị viêm loét dạ dày, tá tràng và viêm túi mật.

Nước táo chống chỉ định trong các trường hợp bị viêm đường tiêu hóa.

Nước nho không nên dùng trong các trường hợp viêm dạ dày do tăng tiết axit, viêm tuyến tiêu hóa.

Nước lựu cũng nên pha loãng với nước. Nó chứa nhiều axit, kích thích tiêu hóa nên không dùng cho những người bị các bệnh liên quan tới hệ tiêu hóa.

Để có thể hấp thụ tất cả các vitamin và khoáng chất trong nước quả, bạn không nên uống cùng một lúc. Các thử nghiệm cho thấy uống như vậy không tốt, thậm chí còn gây nguy hiểm cho cơ thể. Giới hạn cho phép là từ vài thìa đến 3 cốc/ngày tùy loại quả.

Mùa hè uống nước mía và nước dừa giải khát là rất tốt, nhưng nếu thay cho nước lọc thì không nên. Mía cung cấp cho cơ thể năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết. Nếu dùng quá nhiều nước mía sẽ dẫn tới béo phì vì cơ thể thừa năng lượng.

Khi đi nắng về, mồ hôi ra nhiều, khi uống nên cho thêm một chút muối vào nước dừa để có những chất điện giải cần thiết bù vào lượng đã mất đi. Nước dừa tươi pha chút muối cũng có thể trị được tiêu chảy ở trẻ em. Nhưng nếu uống quá nhiều nước dừa sẽ bị đầy bụng, khó hấp thụ các thức ăn khác.

Theo Dep
Share: